-
-
-
Tổng tiền thanh toán:
-
Thực đơn ăn dặm mẹ bỏ túi ngay cho bé một bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng.
Ngày đăng: 10/02/2022
Trẻ nên bắt đầu được ăn dặm từ khi tròn 6 tháng tuổi bởi lúc này nguồn năng lượng từ sữa mẹ không còn đủ cung cấp cho sự phát triển của trẻ. Ăn dặm là cho trẻ ăn bổ sung các thức ăn khác ngoài sữa mẹ, bao gồm tinh bột, các loại vitamin từ rau, thịt, cá, trứng, hoa quả, sữa...
Khi nào bắt đầu cho bé ăn dặm?
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo mẹ chỉ nên bắt đầu cho bé ăn dặm khi được tròn 6 tháng tuổi, vì lúc này hệ tiêu hóa của bé mới phát triển tương đối hoàn chỉnh để có thể hấp thu những thực phẩm đặc và phức tạp hơn sữa mẹ.
Trước 4 tháng tuổi, cơ thể trẻ chưa có đủ men amylase để tiêu hóa chất bột. Do vậy, nếu cho bé ăn dặm trước 4 tháng dễ khiến bé chán sữa mẹ nên bú ít đi, dẫn đến tình trạng thiếu hụt các dưỡng chất thiết yếu, quan trọng từ sữa mẹ. Điều này làm bé giảm sức đề kháng, tăng nguy cơ suy dinh dưỡng và ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình phát triển. Mặt khác, bé dễ bị dị ứng thực phẩm do hệ tiêu hóa khi bé 4 tháng tuổi vẫn chưa hoàn thiện, đặc biệt là những bé có cơ địa nhạy cảm. Vì vậy, bé dễ bị tiêu chảy, rối loạn tiêu hóa vì hệ tiêu hóa non nớt chưa đủ men để xử lý tinh bột và những thức ăn phức tạp khác.
Ngược lại, nếu cho bé ăn dặm muộn sau 6 tháng tuổi, nhiều khả năng trẻ sẽ đứng cân, tăng trưởng chậm. Bởi vì khi này sữa mẹ không cung cấp đủ chất dinh dưỡng cần thiết cho trẻ phát triển.
Giai đoạn ăn dặm là khi trẻ cần ăn bổ sung vì nhu cầu năng lượng tăng. Từ khi bé được 6 tháng tuổi, năng lượng từ sữa mẹ chỉ đủ cung cấp khoảng 450kcal/ngày, trong khi đó giai đoạn này trẻ cần khoảng gần 700kcal/ngày. Do vậy, ăn dặm đúng cách là cần thiết để bù đắp khoảng cách thiếu hụt năng lượng này và lượng thức ăn trong các bữa ăn dặm cũng cần tăng lên khi trẻ lớn lên (tăng về số lượng và đậm độ đặc dần lên), nếu không đảm bảo đủ bữa ăn dặm trẻ sẽ còi cọc, phát triển chậm. Hơn nữa trong giai đoạn này, lượng sắt dự trữ không còn, do vậy trẻ sẽ thiếu sắt nếu chỉ được cung cấp từ nguồn sữa mẹ, do vậy ăn dặm sẽ là nguồn cung cấp đủ lượng sắt cần thiết bù đắp sự thiếu hụt đó. Nếu cơ thể trẻ không có đủ lượng sắt cần thiết trẻ sẽ bị thiếu máu. Khoảng thiếu hụt sắt lớn nhất vào lúc trẻ 6 -12 tháng và nguy cơ thiếu máu lớn nhất cũng ở nhóm tuổi này.
Cho trẻ ăn dặm nên thực hiện một số nguyên tắc:
- Nên tận dụng các nguồn thực phẩm sẵn có tại địa phương, chọn rau củ theo mùa để đảm bảo an toàn thực phẩm.
- Chế biến thức ăn mềm, dễ nhai, dễ nuốt, hợp khẩu vị của trẻ.
- Không nên cho gia vị mắm muối vào thức ăn của trẻ dưới 1 tuổi, vì có thể ảnh hưởng đến chức năng thận của trẻ.
- Cho trẻ ăn từ loãng tới đặc, từ ít tới nhiều, tập cho trẻ ăn quen dần với thức ăn mới. Số lượng thức ăn và bữa ăn tăng dần theo tuổi.
- Bổ sung thêm các loại thực phẩm tạo nên màu sắc thơm ngon, hấp dẫn và đủ chất.
- Bổ sung thêm dầu hoặc mỡ, hoặc vừng, lạc (mè, đậu phộng) để cung cấp thêm năng lượng giúp trẻ mau lớn.
- Không cho trẻ ăn bánh ăn dặm, uống nước ngọt trước bữa ăn vì sẽ làm cho trẻ chán ăn, bỏ bữa hoặc ăn ít đi trong bữa ăn.
- Tất cả dụng cụ chế biến phải sạch sẽ. Rửa tay bằng xà phòng và nước sạch trước khi chế biến thức ăn và khi cho trẻ ăn.
- Cho trẻ tập ăn dặm những thức ăn gần giống với sữa mẹ hoặc gần giống với sữa công thức để bé quen dần với những thức ăn mới lạ. Nên tuân thủ nguyên tắc “ngọt - mặn” khi bắt đầu giai đoạn cho bé ăn dặm. Thường thì bột ngọt sẽ là lựa chọn đầu tiên khi tập cho trẻ ăn dặm vì mùi vị tương tự với sữa mẹ, trẻ được cho ăn dặm bằng bột ngọt trước rồi sẽ dần thay thế bằng bột mặn với nhiều thành phần dinh dưỡng hơn.
- Khi mới ăn dặm, nên cho trẻ ăn ít một để luyện tập cho hệ tiêu hóa của trẻ thích ứng dần với lượng và thành phần thức ăn ngày càng phong phú. Cho trẻ ăn với lượng ít rồi tăng dần, cụ thể như tháng đầu nên cho ăn 1-2 muỗng bột mỗi lần rồi tăng dần lên 1/3 chén, rồi nửa chén... sẽ đảm bảo sự tiêu hóa và cung cấp đầy đủ năng lượng - dưỡng chất cần thiết cho nhu cầu tăng trưởng và phát triển của trẻ.
- Nên cho trẻ ăn loãng, rồi đặc dần và cũng nên tập cho trẻ ăn quen dần với các thức ăn mới, để hệ tiêu hóa của trẻ không bị phản ứng khi tiếp xúc với thức ăn lạ và hệ tiêu hóa của trẻ có thể tiêu hóa được những thức ăn phức tạp hơn.
- Chế độ dinh dưỡng có vai trò quan trọng trong sự phát triển thể chất và trí tuệ của trẻ. Do đó, cha mẹ cần xây dựng một chế độ ăn dặm phù hợp để con phát triển toàn diện.
- Chế độ dinh dưỡng cho trẻ cần phải chứa đủ 4 nhóm dinh dưỡng: Tinh bột (gạo, mì, ngô, khoai...); Đạm (thịt, cá, tôm, cua...); Chất béo (dầu ăn); Các loại rau giúp cung cấp vitamin, sắt, chất xơ và các chất khoáng khác cần thiết cho cơ thể. Tăng năng lượng của bữa ăn bằng cách bổ sung thêm dầu, mỡ hoặc vừng, lạc (mè, đậu phộng).
- Phải cho trẻ ăn đầy đủ cả phần cái và phần nước hầm để cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho trẻ. Nhiều cha mẹ có thói quen chỉ cho con ăn nước hầm xương quấy bột hoặc ninh cháo. Đây là một quan niệm hoàn toàn sai lầm vì xương dù có được ninh, hầm bao lâu, thì phần nước hầm vẫn chứa rất ít chất dinh dưỡng, chỉ có một lượng nhỏ vitamin, chất đạm, canxi vô cơ (cơ thể trẻ không thể hấp thu được). Do đó, chỉ cho trẻ ăn nước hầm có thể khiến trẻ bị thiếu canxi, dẫn tới còi xương, chậm lớn, suy dinh dưỡng.
Đảm bảo đủ 4 nhóm dinh dưỡng
Thực đơn ăn dặm của trẻ cần có đầy đủ 4 nhóm dưỡng chất:
- Nhóm tinh bột: Sử dụng gạo tẻ, gạo tám mới, không nên trộn lẫn gạo nếp (gây đặc khó ăn vì có gluten) ý dĩ, hạt sen, đậu xanh (vì dễ gây cảm giác ngán, khó ăn và khó tiêu).
- Nhóm chất đạm: Thịt, cá, trứng sữa, cua, tôm… là những thực phẩm chứa nhiều đạm. Khi mới bắt đầu tập ăn bổ sung, nên dùng thịt nạc (lợn, gà), lòng đỏ trứng gà giàu đạm, béo, dễ tiêu. Từ tháng thứ 7 có thể cho ăn thịt bò, cá, tôm, cua…. Tháng thứ 8 trở đi trẻ cần ăn đa dạng hơn.
- Nhóm vitamin và khoáng chất: Cà rốt, củ cải, rau ngót, rau dền, chuối, cam, đu đủ…
- Nhóm chất béo: Trẻ cần được ăn cả dầu thực vật và mỡ động vật (mỡ gà, mỡ lợn...), với tỷ lệ tốt nhất là tỷ lệ 1:1 (người trưởng thành là 2:1). Nên cho ăn đa dạng các loại dầu thực vật (đậu nành, mè, ôliu, ...), riêng dầu gấc chỉ nên cho ăn 1- 2 lần/tuần để tránh vàng da do thừa caroten. Đặc biệt lưu ý phải cho trẻ ăn lượng dầu/mỡ phù hợp trong các bữa ăn. Khi bắt đầu ăn bổ sung mỗi bữa cần cho 2,5ml dầu/mỡ, 8 tháng trở lên 5ml, gần 1 tuổi trở 7,5-10ml/bữa theo nguyên tắc một bữa dầu, một bữa mỡ.
Các bước chuẩn bị một bữa ăn dặm cho trẻ
Sơ chế thực phẩm
Các loại thịt, cá, tôm... cần rửa sạch, để ráo nước. Nếu trước đó thực phẩm được bảo quản trong ngăn đá thì cần rã đông hoàn toàn trước khi sử dụng, chú ý rã đông đúng cách. Có thể hấp trước khi băm hoặc xay nhuyễn.
Rau củ: Nhặt sạch và ngâm nước muối. Sau khi sơ chế sạch sẽ và cắt nhỏ đem hấp chín, xay hoặc băm nhỏ.
Chế biến
Đong đủ lượng nước và bột/gạo cho vào xoong, nồi rồi nấu chín. Lưu ý quấy đều tay để bột không bị vón, cháo không bị cháy. Cho trứng đã đánh tan hoặc cho thịt, cá, tôm... đã băm nhỏ vào nồi bột/cháo. Cho bột sôi trong 5 - 7 phút, thêm rau xanh và một chút dầu ăn. Bột sôi lại nhắc xuống đổ bột ra bát, khi bột nguội ấm xúc cho trẻ ăn.
Hoặc cũng có thể cho thịt, cá, tôm… hòa với một nước và bột rồi cho lên bếp nấu. Đun sôi trong khoảng 5-7 phút, thêm rau củ, dầu ăn, đun cho bột sôi lại là được. Bột chín bằng mắt thường có thể cảm nhận được là khi đổ ra bột đã róc xoong, nồi. Để nguội bớt rồi cho trẻ ăn.
Ngoài nấu bột, có thể nấu cháo rồi dùng máy xay sinh tố xay cho trẻ ăn. Nhưng từ 12 tháng bắt buộc phải cho trẻ ăn cháo hạt và ăn các thực phẩm khác như cơm nát, mỳ, bún, phở. Không nên lạm dụng máy xay sinh tố làm trẻ lười nhai dẫn đến biếng ăn.
Dinh dưỡng cho trẻ 7- 12 tháng tuổi:
Trẻ 7-8 tháng tuổi: Khi bắt đầu ăn bổ sung, nên tập ăn cho trẻ bằng cách cho trẻ ăn lượng tăng dần, độ đặc tăng dần. Lúc đầu cho ăn 2-3 thìa bột mỗi lần, mỗi ngày cho trẻ ăn từ 2-3 lần. Thời gian làm quen này không quá 2 tuần.
Khi trẻ đã quen với thức ăn mới, có thể tăng dần từ 2-3 bữa bột một ngày (mỗi bữa từ 1/2 - 2/3 bát ăn cơm).
Cho trẻ uống thêm nước ép trái cây như nước cam, bưởi, đu đủ… Cho trẻ bú mẹ theo nhu cầu. Với những trẻ không được bú mẹ vì lý do nào đó thì cần cho trẻ uống 600-700ml sữa/ngày (bao gồm sữa công thức, sữa chua, pho mai…)
Trong thực đơn hàng ngày cần đảm bảo lượng đạm từ 10 - 15g, bột gạo từ 40 - 80g, rau xanh từ 25g. Mẹ có thể tham khảo một số thực đơn cho trẻ như: Cháo tim gà, rau cải, bí xanh nghiền; cháo cá thịt trắng và cà rốt; cháo thịt gà bí đỏ…
Trẻ 9 - 10 tháng tuổi: Cho trẻ ăn 3 bữa bột đặc/ngày, mỗi bữa từ 3/4 đến miệng bát. Cho trẻ bú mẹ theo nhu cầu. Với những trẻ không được bú mẹ vì lý do nào đó thì cần cho trẻ uống thêm 500 - 600ml sữa/ngày (bao gồm sữa công thức, sữa chua, pho mai…).
Giai đoạn này đa số các loại thực phẩm bé đều đã có thể ăn được. Đa số các bé cũng đã mọc 2 - 4 răng sữa và đã có thể nhai, gặm được những loại thực phẩm mềm. Những thực đơn ăn dặm cho bé giai đoạn này các mẹ có thể tham khảo: cháo trứng gà khoai lang, cháo tôm mướp, cháo thịt bò cải thảo…
Trẻ 11 - 12 tháng tuổi: Giai đoạn này bé đã có thể nhai được, các loại thức ăn đều có thể không nhất định phải nghiền nhuyễn nữa. Đa dạng các loại thực phẩm sẽ giúp bé bổ sung dưỡng chất tốt hơn. Cho trẻ ăn 3 bữa bột đặc/ngày, mỗi bữa từ 3/4 đến miệng bát. Cho trẻ bú mẹ theo nhu cầu. Với những trẻ không được bú mẹ vì lý do nào đó thì cần cho trẻ uống thêm 500 - 600ml sữa/ngày (bao gồm sữa công thức, sữa chua, pho mai…).
Khuyến cáo của Viện Dinh dưỡng về thực đơn ăn dặm cho trẻ 7-12 tháng tuổi:
Tháng tuổi |
Loại thức ăn |
Số bữa trong ngày |
Số lượng mỗi bữa bột/cháo |
7 - 9 tháng |
Bột, thức ăn thái nhỏ hoặc nghiền |
2 - 3 bữa bột + bú mẹ + Nước quả (4-6 thìa) |
2 - 3 thìa khi tập ăn, sau tăng dần lên 2/3 bát con |
Bú mẹ theo nhu cầu. |
|||
10 - 12 tháng |
Bột, thức ăn thái nhỏ hoặc nghiền |
3 bữa bột + bú mẹ + nước quả (6-8 thìa) |
3/4 - miệng bát con |
Bú mẹ theo nhu cầu. |